Hiểu bệnh A-Z - Nội tiết

16/05/2023 GMT+0700

Viêm giáp Hashimoto

TS.BS. Bùi Minh Trạng

Năm 1992, BS. Hashimoto - người Nhật Bản - đã mô tả một kiểu bệnh lý viêm của tuyến giáp hay gặp ở phụ nữ, đây là một bệnh viêm mãn tính với bướu cổ to. Sau đó bệnh này được đặt tên là viêm giáp Hashimoto, ngoài ra nó còn mang tên khác: viêm tuyến giáp mạn tính lympho bào, viêm giáp tự miễn. Đã có 14 triệu người Mỹ bị bệnh này và phụ nữ nhiều gấp 7 lần nam giới. Đặc trưng của viêm giáp Hashimoto là sự tạo ra các tế bào miễn dịch và kháng thể từ hệ thống miễn dịch của cơ thể, bệnh gây tổn thương tế bào tuyến giáp làm giảm khả năng sản xuất hormon.

Viêm giáp Hashimoto tương tự viêm giáp khác

Viêm giáp Hashimoto gặp trên 90% phụ nữ trong tuổi sắp mãn kinh (từ 40 – 50 tuổi). Trong giai đoạn đầu không có triệu chứng nào gợi ý, có thể tồn tại nhiều năm không phát hiện ra và chẩn đoán chỉ được nghĩ đến khi thấy có bướu cổ cùng xét nghiệm máu bất thường. Đôi khi có thể phát hiện ra bệnh khi khám sức khỏe định kỳ. Khi bệnh tiến triển, xuất hiện triệu chứng đè ép ở cổ do bướu của tuyến giáp to ra, có thể kèm với giảm lượng hormon tuyến giáp trong máu. Triệu chứng đầu tiên của bệnh là việc sưng đau ở vùng tuyến giáp (phía trước cổ), sự to ra của tuyến giáp dễ dàng nhận biết bằng quan sát hoặc cảm giác khó chịu của người bệnh. Nếu không được điều trị, bướu to ra làm bệnh nhân gặp khó khăn khi nuốt hoặc khó thở.

Bệnh nhân viêm giáp Hashimoto ở giai đoạn suy giảm chức năng tuyến giáp sẽ có nhiều triệu chứng: mệt mỏi, hay buồn ngủ, mau quên, học tập khó khăn, tóc và móng giòn, khô dễ gãy, da khô và ngứa, mặt phịn ra, táo bón, đau cơ, tăng cân, rối loạn kinh nguyệt, tăng tần suất bị sẩy thai, tăng nhạy cảm với nhiều thuốc… Triệu chứng suy tuyến giáp trong viêm giáp Hashimoto diễn biến chậm chạp. Việc điều trị thích hợp với hormon tuyến giáp sẽ loại trừ được các triệu chứng của suy giáp và thậm chí ngăn chặn được sự to lên của tuyến giáp, đôi khi còn giúp co nhỏ bướu cổ.

Viêm giáp Hashimoto do tự miễn và điều trị thường thuận lợi

Như đã đề cập, viêm giáp Hashimoto còn gọi là viêm giáp tự miễn dịch. Ở đây có sự đặc trưng về mô bệnh học là sự xâm nhập lympho bào và tương bào vào mô viêm, các nang giáp teo lại thoái hóa lớp biểu bì ở nhiều mức độ khác nhau, một số lớp biểu bì đã trở thành ái toan và phì đại. Năm 1960, Domiach đã xác định được yếu tố miễn dịch đóng vai trò quan trọng trong bệnh học viêm giáp Hashimoto, có nhiều rối loạn ở hệ thống miễn dịch. Hệ miễn dịch hoạt động không còn chính xác, bình thường chúng bảo vệ cơ thể chống lại sự xâm nhập của yếu tố ngoại lai: vi khuẩn, virus, các chất khác. Trong viêm giáp Hashimoto, hệ thống miễn dịch nhận diện nhầm tế bào tuyến giáp bình thường là mô lạ nên đã sản xuất kháng thể phá hủy các tế bào này. Mặc dù người ta xem xét đến nhiều yếu tố môi trường khác nhau nhưng không chứng minh được sự liên quan với viêm giáp Hashimoto.

Khi bệnh nhân đến khám, bác sĩ sẽ phát hiện tình trạng to của tuyến giáp, có thể gấp 3 – 4 lần thể tích bình thường. Mặt bướu nhẵn, đều đặn, mật độ dày, cứng như cao su, đôi khi sờ thấy một hoặc nhiều nhân, di động theo nhịp nuốt và không gây đau hay chèn ép (ở giai đoạn đầu). Để xác định chẩn đoán viêm giáp Hashimoto, người ta dựa vào các xét nghiệm về hormon (giảm hormon tuyến giáp ở trong máu). Bên cạnh đó là sự hiện diện của kháng thể chống tuyến giáp nhưng không phải tất cả các trường hợp đều có; tăng TSH trong máu (đây là hormon tạo ra từ tuyến yên có chức năng kích thích tuyến giáp sản xuất hormon giáp trạng). Trong viêm giáp Hashimoto, cần thiết phải chọc hút tuyến giáp để xét nghiệm mô học.

Cần phân biệt một số bệnh có to tuyến giáp với viêm giáp Hashimoto. Đầu tiên phải loại trừ ung thư tuyến giáp, ở trường hợp này bướu giáp thường có nhân, mật độ cứng, dính vào mô xung quanh. Thường có kèm vào dây thần kinh quặt ngược gây ra khàn tiếng. Bướu to nhanh hơn, có hạch vùng cổ hoặc hố trên đòn, điều trị hormon bướu không nhỏ lại. Viêm giáp trạng bán cấp cũng cần phải phân biệt khi khởi đầu bướu có kèm đau. Trong viêm giáp bán cấp, độ tập trung I131 hạ thấp, nếu có kháng thể chống tuyến giáp thì nồng độ cũng thấp (có tính chất tạm thời, sau đó sẽ mất đi). Khi bệnh viêm giáp Hashimoto có cường giáp ở giai đoạn đầu cần phải phân biệt với cường giáp thật sự, bằng cách dùng nghiệm pháp kiềm hãm bằng T3, trong cường giáp thật sự không thể kiềm hãm được.

Khi chẩn đoán viêm giáp Hashimoto, người bệnh  cần phải điều trị bằng thyroxin nhất là khi có bướu cổ kèm suy giáp. Hormon giáp sẽ làm giảm tăng tiết TSH giúp cho tuyến giáp nhỏ lại, dùng thuốc trong 4 – 6 tháng cho đến khi hormon tuyến giáp trở lại bình thường. Do là bệnh miễn dịch nên một số trường hợp bướu phát triển nhanh, triệu chứng rầm rộ có thể phải dùng thuốc corticoid. Bệnh nhân phải được bác sĩ chuyên khoa nội tiết theo dõi điều trị, được dò liều dùng hormon giáp trạng có hiệu quả, theo dõi các biến chứng… Nếu liều dùng không đủ, bướu cổ sẽ to ra, triệu chứng suy giáp sẽ tồn tại và có thể liên quan đến việc tăng cholesterol máu (tăng nguy cơ xơ vữa động mạch và bệnh tim). Nếu quá liều sẽ gây triệu chứng cường giáp trạng, tạo nhiều gánh nặng lên tim, tăng nguy cơ loãng xương,…

Viêm giáp Hashimoto là bệnh miễn dịch nên có liên quan đến di truyền, có thể đi kèm với một số bệnh khác: đái tháo đường týp 1, viêm khớp dạng thấp, bệnh Addison, suy buồng trứng nguyên phát, lupus ban đỏ, ban xuất huyết do giảm tiểu cầu, thiếu máu ác tính,…

[Banner Mid] Hồng Phát


Ý kiến của bạn

{% item.name %}

{% item.comment %}

Đọc thêm

sile

Cảnh giác với suy thận mạn

05/09/2023 04:51:00 GMT+0700

Suy thận mạn tính diễn ra theo 3 giai đoạn: giảm dự trữ thận, suy thận, tăng urê huyết. Khi dự trữ thận giảm, có thể tính được mức độ hủy hoại chức năng thận, còn sự cân bằng nội môi (homéostasis) vẫn ổn định nhờ vai trò thích ứng của hormon tăng năng tuyến cận giáp thứ phát (hyperparathyroidism) và những thay đổi về cân bằng giữa cầu thận và ống thận trong cấu trúc thận.

sile

Để hiểu rõ hơn về bệnh đái tháo đường

20/08/2023 03:26:00 GMT+0700

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Hội Đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA) định nghĩa người bệnh đái tháo đường là người có glucose huyết bằng hoặc trên 1,2g (7mmol) trong 1 lít huyết tương tĩnh mạch khi đói, qua hai lần xét nghiệm máu liên tiếp cách nhau vài ngày; hoặc có glucose huyết trên 2g (11mmmol) trong 1 lít huyết tương tĩnh mạch hai giờ sau khi uống 75g glucose hoặc vào bất cứ lúc nào trong ngày.

sile

Xét nghiệm HbA1C

17/05/2023 03:14:00 GMT+0700

Trong năm 2010 có 10 thành tựu y dược được ghi nhận, trong đó có việc xác định xét nghiệm HbA1C thành tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường với mức #6,5% (xét nghiệm HbA1C trước đây chỉ dùng làm chỉ số theo dõi điều trị đái tháo đường).

sile

Những chất gây ô nhiễm về mặt nội tiết ở cơ thể

17/05/2023 03:00:00 GMT+0700

Các tác nhân gây rối loạn về mặt nội tiết là những chất có ở môi trường, có tác động như những hormon trong cơ thể hoặc ức chế hoạt tính của các hormon. Do đó, chúng gây ra những hậu quả ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người.

sile

Phòng tránh biến chứng do đái tháo đường

17/05/2023 02:40:00 GMT+0700

Theo Hiệp hội Đái tháo đường quốc tế (IDF), ở các nước phát triển vẫn còn khoảng 30% người bị đái tháo đường chưa được chẩn đoán. Còn ở các nước đang phát triển, trong đó có nước ta có tới 80 – 90% số người bị đái tháo đường chưa được phát hiện.

sile

Hội chứng carcinoid một bệnh lý nguy hiểm hiếm gặp

17/05/2023 02:10:00 GMT+0700

Ngày nay bộ máy tiêu hóa cũng được xem như là một cơ quan nội tiết bởi vì có nhiều tế bào thần kinh nội tiết nằm phân bố dọc theo ống tiêu hóa. Những tế bào này có thể bị ung thư hóa gây nên các loại u thần kinh - nội tiết; trong đó hay gặp nhất là u carcinoid.

sile

{% item.title %}

{% item.time_ago %}

{% item.short_description %}