Hiểu bệnh A-Z - Nội tiết

20/08/2023 GMT+0700

Để hiểu rõ hơn về bệnh đái tháo đường

GS. Phạm Gia Cường

Như vậy đái tháo đường là tình trạng cơ thể không có khả năng cung cấp lượng insulin cần thiết vào mọi lúc để giữ cho glucose huyết bình thường.

Tuyến tụy

Tụy là cơ quan tiêu hóa có hai chức năng ngoại tiết và nội tiết.

– Tụy ngoại tiết bài tiết các sản phẩm qua một ống dẫn, sản xuất men tiêu hóa thức ăn, đổ vào ống Wirsung trong tá tràng cùng với dịch mật rồi chảy dọc theo ruột non (tiểu tràng) trộn lẫn với những sản phẩm của dạ dày để đồng hóa thức ăn.

– Tụy nội tiết đổ trực tiếp các sản phẩm là các hormon vào các mạch máu nhỏ, rồi vào các tĩnh mạch. Sau khi vượt qua tim, các hormon này đi đến tất cả các động mạch, các mao mạch rồi dừng chân tại các mô cơ thể. Trong số các hormon này có glucagon, somatostatin, các peptid và insulin. Insulin được sản xuất bởi các tế bào beta tập hợp thành những nhóm nhỏ rải rác trong tụy gọi là những tiểu đảo Langerhans. Tụy của một người trưởng thành có khoảng 400 tiểu đảo beta này.

Vào năm 1923, Banting và Best phát hiện insulin là hormon chính làm hạ tỷ lệ glucose trong máu bằng cách giúp glucose xâm nhập vào trong mỗi tế bào cơ thể. Như vậy vào bất cứ lúc nào cũng đều có một mối liên hệ chặt chẽ giữ lượng glucose trong máu với lượng insulin do tụy sản xuất.

Glucose huyết

Nhà sinh lý học người Pháp Claude Bernard (1813 – 1878) đã dùng từ glycémie (glucose huyết) để chỉ sự có mặt của glucose trong máu. Glucose huyết lúc đói bình thường xê dịch giữa 0,8 và 1g/l (4,4 – 5,5mmol/l). Nếu glucose lúc đói trên 1g/l (5,5mmol/l) nhưng dưới 1,26g/l (7mmol/l); và dưới 2g/l (11mmol/l) khi thử máu vào bất cứ lúc nào trong 24 giờ thì gọi là “tăng glucose huyết khi đói”. Đây là giai đoạn trung gian giữa trạng thái bình thường và đái tháo đường. Nếu glucose huyết lúc đói bằng ít nhất 1,26g/l (7mmol/l) và bằng 2g/l (11mmol/l) vào bất cứ lúc nào trong ngày thì gọi là đái tháo đường. Thiếu glucose là “hạ glucose huyết” (hypoglycémie) tương ứng với tỷ lệ glucose dưới 0,4g/l (2,2mmol/l). Thừa  glucose là “hyperglycémie (tăng glucose huyết)”. Trong cơ thể, glucose được vận chuyển bởi huyết tương. Máu tĩnh mạch chứa ít glucose hơn máu mao mạch vì các mô cơ thể đã sử dụng glucose làm cho glucose nghèo đi nhưng sự hao hụt này chỉ là nhẹ nên người ta không để ý đến khi đo tỷ lệ glucose huyết.

Vai trò của glucose trong cơ thể

Cơ thể người được cấu tạo bởi các tế bào bảo đảm cho hoạt động của nó. Muốn tồn tại và hoạt động tốt những tế bào này cần đến oxy do hệ hô hấp cung cấp và thức ăn đã đồng hóa trực tiếp (nutriments) do hệ tiêu hóa bảo đảm. Vào cuối thời gian tiêu hóa, phần lớn các chất đường đã chuyển thành glucose, mỡ đã trở thành những hạt nhỏ chứa chủ yếu các acid béo, còn protein đã bị cắt thành những đơn vị nhỏ gọi là acid amin.

Trong số các thức ăn đồng hóa trực tiếp này, glucose là nhiên liệu cung cấp năng lượng tốt nhất cho cơ thể, chủ yếu là cho những tế bào thần kinh. Glucose là một loại đường đơn mono-saccharid dự trữ trong cơ bắp và chủ yếu là trong gan. Cơ quan này có những thiết bị nắm bắt glucose rất nhạy; nó sử dụng glucose như là nhiên liệu sản xuất ra năng lượng của nó, hoặc có thể dự trữ glucose dưới dạng glycogen. Gan có thể chứa được 100 – 150g glycogen là nguồn dự trữ glucose có thể sử dụng được ngay tức khắc khi cần và luôn được bổ sung mới trong các bữa ăn. Khi glucose bị phân hủy sẽ giải phóng năng lượng vào tất cả các tế bào cơ thể. Trong thức ăn, glucose tồn tại dưới hình thức phối hợp với các loại đường đơn khác tạo thành disaccharid gồm có hai đường như saccharose của đường mía hoặc lactose của sữa, các polysaccharid hợp thành từ nhiều loại đường đơn như amidon trong lúa mì hoặc các loại hạt có bột (féculents).

Biến đổi của glucose phụ thuộc vào các bữa ăn

Khi đói chỉ số glucose huyết vào khoảng 1g/l, sau khi ăn tăng lên đến 1,4g/l. Khi ăn một mẩu bánh mì, tinh bột (amidon) trong bánh sẽ tiếp xúc với nước bọt và một vị ngọt xuất hiện trong miệng vì nước bọt đã giải phóng glucose từ bánh mì. Tinh bột sẽ xuống dạ dày rồi đến ruột non và giải phóng hết lượng glucose của nó. Glucose sẽ vượt qua các tế bào ruột rồi theo đường tĩnh mạch cửa đến gan là cơ quan đích đầu tiên của nó. Tại đây, quá nửa số insulin được dùng để kích thích glucose chuyển thành glycogen dự trữ và giúp sản xuất các protein và triglycerid. Phần insulin còn lại sẽ thoát khỏi gan bằng đường các tĩnh mạch trên gan rồi đến tim phải, qua đường tĩnh mạch chủ dưới. Sau khi vượt qua phổi, máu trở về tâm nhĩ trái, rồi tâm thất trái, cuối cùng qua động mạch chủ đến những động mạch của các cơ quan trong cơ thể rồi chia thành các nhánh càng ngày càng nhỏ gọi là mao mạch đưa glucose đến tất cả các mô.

Cần biết rõ là số glucose dư thừa không phải được các tế bào bơm hết ngay từ đầu và sự tiêu hóa đường và hấp thu glucose lại không xảy ra cùng một lúc nên sau các bữa ăn, chỉ số glucose huyết bao giờ cũng cao hơn khi đói.

[Banner Mid] Hồng Phát


Ý kiến của bạn

{% item.name %}

{% item.comment %}

Đọc thêm

sile

Cảnh giác với suy thận mạn

05/09/2023 04:51:00 GMT+0700

Suy thận mạn tính diễn ra theo 3 giai đoạn: giảm dự trữ thận, suy thận, tăng urê huyết. Khi dự trữ thận giảm, có thể tính được mức độ hủy hoại chức năng thận, còn sự cân bằng nội môi (homéostasis) vẫn ổn định nhờ vai trò thích ứng của hormon tăng năng tuyến cận giáp thứ phát (hyperparathyroidism) và những thay đổi về cân bằng giữa cầu thận và ống thận trong cấu trúc thận.

sile

Để hiểu rõ hơn về bệnh đái tháo đường

20/08/2023 03:26:00 GMT+0700

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Hội Đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA) định nghĩa người bệnh đái tháo đường là người có glucose huyết bằng hoặc trên 1,2g (7mmol) trong 1 lít huyết tương tĩnh mạch khi đói, qua hai lần xét nghiệm máu liên tiếp cách nhau vài ngày; hoặc có glucose huyết trên 2g (11mmmol) trong 1 lít huyết tương tĩnh mạch hai giờ sau khi uống 75g glucose hoặc vào bất cứ lúc nào trong ngày.

sile

Xét nghiệm HbA1C

17/05/2023 03:14:00 GMT+0700

Trong năm 2010 có 10 thành tựu y dược được ghi nhận, trong đó có việc xác định xét nghiệm HbA1C thành tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường với mức #6,5% (xét nghiệm HbA1C trước đây chỉ dùng làm chỉ số theo dõi điều trị đái tháo đường).

sile

Những chất gây ô nhiễm về mặt nội tiết ở cơ thể

17/05/2023 03:00:00 GMT+0700

Các tác nhân gây rối loạn về mặt nội tiết là những chất có ở môi trường, có tác động như những hormon trong cơ thể hoặc ức chế hoạt tính của các hormon. Do đó, chúng gây ra những hậu quả ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người.

sile

Phòng tránh biến chứng do đái tháo đường

17/05/2023 02:40:00 GMT+0700

Theo Hiệp hội Đái tháo đường quốc tế (IDF), ở các nước phát triển vẫn còn khoảng 30% người bị đái tháo đường chưa được chẩn đoán. Còn ở các nước đang phát triển, trong đó có nước ta có tới 80 – 90% số người bị đái tháo đường chưa được phát hiện.

sile

Hội chứng carcinoid một bệnh lý nguy hiểm hiếm gặp

17/05/2023 02:10:00 GMT+0700

Ngày nay bộ máy tiêu hóa cũng được xem như là một cơ quan nội tiết bởi vì có nhiều tế bào thần kinh nội tiết nằm phân bố dọc theo ống tiêu hóa. Những tế bào này có thể bị ung thư hóa gây nên các loại u thần kinh - nội tiết; trong đó hay gặp nhất là u carcinoid.

sile

{% item.title %}

{% item.time_ago %}

{% item.short_description %}