Những điều cần biết về vitamin D

Duy Trung

Vitamin D là loại vitamin được nhắc đến nhiều nhất trong thời gian gần đây khi đại dịch COVID-19 hoành hành trên khắp thế giới, do tác dụng giúp tăng cường hệ miễn dịch và kháng viêm của loại vitamin này. Tuy nhiên, không chỉ có thế, vitamin D còn có nhiều tác dụng đối với sức khỏe mà nhiều người có thể chưa biết.

Không như các loại vitamin khác, vitamin D gồm các hoạt chất sinh học có chức năng giống như một loại hormon thuộc nhóm secosteroid, với 2 chất chính là vitamin D2 (ergocalciferol) và vitamin D3 (cholecalciferol). Hầu hết các tế bào trong cơ thể chúng ta đều có thụ thể gắn với vitamin D, giúp bật tắt các gen và điều chỉnh các quá trình như: tăng trưởng tế bào, chức năng thần kinh cơ và miễn dịch, chuyển hóa glucose, calci,….

Thiếu vitamin D

Thiếu vitamin D là tình trạng rất phổ biến trên thế giới. Tại Hoa Kỳ, dữ liệu từ cuộc Kiểm tra Dinh dưỡng và Sức khỏe Quốc gia năm 2005 – 2006 trên 4.495 người trưởng thành đã cho thấy tỷ lệ thiếu vitamin D chung là 41,6%, trong đó tỷ lệ cao nhất ở người da đen (82,1%), tiếp theo là người Mỹ gốc Tây Ban Nha (69,2%). 

Thường người ta chỉ phát hiện tình trạng thiếu vitamin D qua việc xét nghiệm máu. 

Theo hướng dẫn gần đây của Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ thì nồng độ vitamin D trong máu của mỗi người phải đạt tối thiểu là 20ng/mL.  Tuy nhiên, theo một số nhà chuyên môn thì mức vitamin D mọi người cần đạt khoảng 30ng/mL để đảm bảo cơ thể nhận đầy đủ các lợi ích của vitamin D. 

Điều đáng lưu ý là trong đa số trường hợp, tình trạng nồng độ vitamin D trong máu thấp vẫn không có biểu hiện triệu chứng nào. Tuy nhiên, về lâu dài, tình trạng thiếu vitamin D sẽ ảnh hưởng đến nhiều chức năng của cơ thể: như cơ xương khớp, tim mạch, hô hấp, nội tiết, tâm thần kinh,... và có thể biểu hiện bằng các triệu chứng: hay mệt mỏi, yếu cơ, đau nhức xương khớp, lâu lành vết thương, dễ bị cảm cúm, ho, viêm phổi,… Trẻ em thiếu vitamin D dễ bị còi xương, chậm lớn, khó ngủ,… 

Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy việc thiếu vitamin D có liên hệ đến các bệnh và chứng như còi xương, nhuyễn xương, yếu cơ, béo phì, đái tháo đường, đau tim, nhiễm trùng hô hấp, hen suyễn, trầm cảm, mất trí nhớ, đa xơ cứng, hói đầu, giảm khả năng sinh sản và một số chứng ung thư như ung thư tuyến tiền liệt, ung thư ruột kết; làm tăng tỷ lệ tử vong,...

Tình trạng bệnh lý do thiếu vitamin D thường gặp nhiều hơn ở các dân tộc sống trong các vùng xa xích đạo và vào mùa đông, do thiếu ánh sáng mặt trời.

Tuy nhiên, ở các nước thuộc vùng nhiệt đới như nước ta, tình trạng thiếu vitamin D ảnh hưởng đến sức khỏe cũng thường gặp ở trẻ em, người già, người sống trong môi trường khép kín, ít tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, người mắc bệnh gan, thận mãn tính, bệnh đường ruột (như bệnh Crohn, celiac…); bệnh cường tuyến cận giáp; người thường xuyên sử dụng một số loại thuốc ảnh hưởng đến hấp thu và chuyển hóa vitamin D  (chẳng hạn như các thuốc nhuận tràng, thuốc trị động kinh, các statin, steroid,…) và cả những người bị thừa cân, béo phì.

Nguồn cung cấp vitamin D

Nguồn cung cấp vitamin D cho cơ thể chúng ta một phần đến từ thực phẩm như các loại cá béo, thịt, trứng, sữa, men, nấm, các loại hạt,… Tuy nhiên, một phần quan trọng vitamin D mà con người nhận được là do tia  cực tím của ánh sáng mặt trời chiếu qua da, làm biến đổi cholesterol trong cơ thể  thành cholecalciferol (vitamin D3). 

Nguồn vitamin D do cơ thể tự tổng hợp khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời và được cơ thể tự điều chỉnh mà không gây ngộ độc vitamin D. 

Tuy nhiên, tiếp xúc với ánh nắng mặt trời quá lâu có thể có những tác hại khác như làm sạm da, lão hóa da và trong một số trường hợp có thể gây bệnh ung thư da.

Tùy theo vùng miền, thời tiết, tuổi tác, màu da, nhưng nói chung, theo các nhà chuyên môn, chỉ cần để một phần da trần tiếp xúc với ánh nắng mặt trời khi nắng nhẹ trong vòng 10 – 20 phút mỗi ngày, là đủ cho cơ thể tổng hợp lượng vitamin D cần thiết. 

Cần chú ý là kem chống nắng hoặc kính cửa sổ có thể cản trở một phần tia cực tím trong ánh nắng mặt trời, làm giảm khả năng tổng hợp vitamin D của cơ thể.

Về mặt sinh học, vitamin D thu được từ việc tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, thực phẩm và chất bổ sung vẫn chưa có tác dụng, mà phải trải qua 2 lần phản ứng hydroxyl hóa trong cơ thể để kích hoạt. Quá trình hydroxyl hóa đầu tiên xảy ra ở gan, chuyển đổi vitamin D thành 25-hydroxyvitamin D [25(OH)D] hay “calcidiol”. Quá trình hydroxyl hóa thứ hai xảy ra chủ yếu ở thận và tạo thành 1,25-dihydroxyvitamin D [1,25(OH)2D] có hoạt tính sinh lý, còn được gọi là “calcitriol”.

Bổ sung vitamin D

Để phòng ngừa việc thiếu vitamin D, người ta có thể dùng các thực phẩm chế biến có thêm vitamin D, như các loại sữa, sữa chua (yaourt), ngũ cốc hay bột dinh dưỡng, bánh kẹo, thực phẩm bổ sung, hoặc dùng thêm các loại thuốc có chứa vitamin D với liều thấp.

Tùy theo trường hợp, liều lượng vitamin D bổ sung được khuyến nghị hàng ngày là từ 400 IU – 4.000 IU (hoặc 25 – 100 mcg) là đủ để đảm bảo lượng tối ưu trong máu cho hầu hết mọi người. 

Vitamin D thuộc loại hòa tan trong chất béo, nên có thể tích trữ trong mô mỡ một thời gian để cơ thể sử dụng lâu dài.

Để cơ thể tối đa hóa khả năng hấp thụ vitamin D, cũng cần dùng khẩu phần thực phẩm có đủ lượng chất béo cần thiết. Ngoài ra, acid béo omega-3 và các vitamin tan trong chất béo khác, như vitamin A và vitamin K, cũng có vai trò hỗ trợ hoạt tính sinh học của vitamin D. 

Ngộ độc vitamin D 

Các trường hợp ngộ độc thường chỉ xảy ra khi dùng vitamin D lâu dài với liều rất cao (từ 40.000 – 100.000 IU), chủ yếu là do nhầm lẫn hoặc do dùng quá nhiều các sản phẩm bổ sung hay thực phẩm chức năng chứa lượng vitamin D không được kiểm soát.

Ngộ độc vitamin D làm tăng calci huyết, có thể gây buồn nôn, nôn mửa, yếu cơ, rối loạn tâm thần kinh, đau, chán ăn, tiểu nhiều gây mất nước, khát nước quá mức và sỏi thận. Các tình trạng này thường có thể hồi phục, nhưng những trường hợp nghiêm trọng có thể gây suy thận và vôi hóa động mạch.

Trong trường hợp có nghi ngờ về việc sử dụng vitamin D, bạn nên tham khảo ý kiến của bác sĩ điều trị.

[Banner Mid] Hồng Phát


Ý kiến của bạn

{% item.name %}

{% item.comment %}

Đọc thêm

sile

Sáu biểu hiện định mệnh của sức khỏe

18/11/2024 00:00:00 GMT+0700

Đi bộ chậm, leo cầu thang khó khăn, khó đứng vững trên một chân, đó không phải dấu hiệu bình thường ở người lớn tuổi mà có thế là cảnh báo tử vong sớm.

sile

Thức ăn chiên làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim, đột quỵ

08/09/2023 02:37:00 GMT+0700

Các tác giả Trung Quốc đã phân tích 19 nghiên cứu được công bố trước đó và kết hợp dữ liệu từ 17 nghiên cứu, liên quan đến hơn 560.000 người với gần 37.000 biến cố tim mạch lớn, chẳng hạn như đau tim hoặc đột quỵ.Nguồn: DS Huỳnh Văn Nhiệm (theo HealthDay)

sile

Ăn ít vẫn mập, tại sao?

08/09/2023 02:14:00 GMT+0700

Kiểm soát cân nặng là một mối quan tâm hàng đầu của nhiều người, có lẽ do cân nặng gắn liền với ngoại hình của một người, giúp cho người đó tự tin hài lòng với cuộc sống hay luôn mặc cảm, tự ti, đánh mất niềm vui trong cuộc sống, từ đó ảnh hưởng tới hiệu quả làm việc và học tập hàng ngày cũng như dẫn tới nhiều bệnh lý về tim mạch, đái tháo đường, rối loạn lipid máu,...

sile

Chế độ ăn chay có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch

05/09/2023 01:27:00 GMT+0700

Mới đây. các nhà nghiên cứu từ Đại học Sydney và Bệnh viện Hoàng gia Prince Alfred ở Úc và Đại học Brescia ở Ý đã tìm hiểu xem chế độ ăn chay ảnh hưởng như thế nào đến các yếu tố chính gây rủi ro chuyển hóa tim mạch ở những người mắc bệnh, hoặc có nguy cơ cao mắc bệnh tim mạch.Nguồn: DS Huỳnh Trà Kiệu (theo MedicalNewsToday)

sile

Tầm quan trọng của vitamin C với sức khỏe

04/09/2023 08:05:00 GMT+0700

Vitamin C còn có tên là acid L-ascorbic, là một chất dinh dưỡng quan trọng cho sức khỏe của mọi người. Nó giúp hình thành và duy trì hoạt động của xương, sụn, da, mạch máu… và hỗ trợ hệ thống miễn dịch...

sile

Bàn luận về “Đói ăn rau đau uống thuốc”

04/09/2023 06:49:00 GMT+0700

Từ xa xưa, con người luôn tin tưởng rằng mỗi loại thực phẩm ăn vào đều là những vị thuốc đem đến cho ta sức khỏe và thậm chí còn giúp phòng chống hoặc chữa trị một số bệnh tật. Các danh sư y học ngày xưa như Hoa Đà, Biển Thước của Đông y và cả Hippocrates của Tây y mấy ngàn năm về trước đều nhìn nhận sự liên hệ mật thiết giữa thức ăn và sức khỏe. Hippocrates đã phát biểu: “Hãy để thức ăn trở thành những vị thuốc”. Còn người dân nước ta ai cũng biết câu nói của ông bà xưa để lại: “Đói ăn rau, đau uống thuốc”.

sile

{% item.title %}

{% item.time_ago %}

{% item.short_description %}