Không như các loại vitamin khác, vitamin D gồm các hoạt chất sinh học có chức năng giống như một loại hormon thuộc nhóm secosteroid, với 2 chất chính là vitamin D2 (ergocalciferol) và vitamin D3 (cholecalciferol). Hầu hết các tế bào trong cơ thể chúng ta đều có thụ thể gắn với vitamin D, giúp bật tắt các gen và điều chỉnh các quá trình như: tăng trưởng tế bào, chức năng thần kinh cơ và miễn dịch, chuyển hóa glucose, calci,….
Thiếu vitamin D
Thiếu vitamin D là tình trạng rất phổ biến trên thế giới. Tại Hoa Kỳ, dữ liệu từ cuộc Kiểm tra Dinh dưỡng và Sức khỏe Quốc gia năm 2005 – 2006 trên 4.495 người trưởng thành đã cho thấy tỷ lệ thiếu vitamin D chung là 41,6%, trong đó tỷ lệ cao nhất ở người da đen (82,1%), tiếp theo là người Mỹ gốc Tây Ban Nha (69,2%).
Thường người ta chỉ phát hiện tình trạng thiếu vitamin D qua việc xét nghiệm máu.
Theo hướng dẫn gần đây của Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ thì nồng độ vitamin D trong máu của mỗi người phải đạt tối thiểu là 20ng/mL. Tuy nhiên, theo một số nhà chuyên môn thì mức vitamin D mọi người cần đạt khoảng 30ng/mL để đảm bảo cơ thể nhận đầy đủ các lợi ích của vitamin D.
Điều đáng lưu ý là trong đa số trường hợp, tình trạng nồng độ vitamin D trong máu thấp vẫn không có biểu hiện triệu chứng nào. Tuy nhiên, về lâu dài, tình trạng thiếu vitamin D sẽ ảnh hưởng đến nhiều chức năng của cơ thể: như cơ xương khớp, tim mạch, hô hấp, nội tiết, tâm thần kinh,... và có thể biểu hiện bằng các triệu chứng: hay mệt mỏi, yếu cơ, đau nhức xương khớp, lâu lành vết thương, dễ bị cảm cúm, ho, viêm phổi,… Trẻ em thiếu vitamin D dễ bị còi xương, chậm lớn, khó ngủ,…
Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy việc thiếu vitamin D có liên hệ đến các bệnh và chứng như còi xương, nhuyễn xương, yếu cơ, béo phì, đái tháo đường, đau tim, nhiễm trùng hô hấp, hen suyễn, trầm cảm, mất trí nhớ, đa xơ cứng, hói đầu, giảm khả năng sinh sản và một số chứng ung thư như ung thư tuyến tiền liệt, ung thư ruột kết; làm tăng tỷ lệ tử vong,...
Tình trạng bệnh lý do thiếu vitamin D thường gặp nhiều hơn ở các dân tộc sống trong các vùng xa xích đạo và vào mùa đông, do thiếu ánh sáng mặt trời.
Tuy nhiên, ở các nước thuộc vùng nhiệt đới như nước ta, tình trạng thiếu vitamin D ảnh hưởng đến sức khỏe cũng thường gặp ở trẻ em, người già, người sống trong môi trường khép kín, ít tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, người mắc bệnh gan, thận mãn tính, bệnh đường ruột (như bệnh Crohn, celiac…); bệnh cường tuyến cận giáp; người thường xuyên sử dụng một số loại thuốc ảnh hưởng đến hấp thu và chuyển hóa vitamin D (chẳng hạn như các thuốc nhuận tràng, thuốc trị động kinh, các statin, steroid,…) và cả những người bị thừa cân, béo phì.
Nguồn cung cấp vitamin D
Nguồn cung cấp vitamin D cho cơ thể chúng ta một phần đến từ thực phẩm như các loại cá béo, thịt, trứng, sữa, men, nấm, các loại hạt,… Tuy nhiên, một phần quan trọng vitamin D mà con người nhận được là do tia cực tím của ánh sáng mặt trời chiếu qua da, làm biến đổi cholesterol trong cơ thể thành cholecalciferol (vitamin D3).
Nguồn vitamin D do cơ thể tự tổng hợp khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời và được cơ thể tự điều chỉnh mà không gây ngộ độc vitamin D.
Tuy nhiên, tiếp xúc với ánh nắng mặt trời quá lâu có thể có những tác hại khác như làm sạm da, lão hóa da và trong một số trường hợp có thể gây bệnh ung thư da.
Tùy theo vùng miền, thời tiết, tuổi tác, màu da, nhưng nói chung, theo các nhà chuyên môn, chỉ cần để một phần da trần tiếp xúc với ánh nắng mặt trời khi nắng nhẹ trong vòng 10 – 20 phút mỗi ngày, là đủ cho cơ thể tổng hợp lượng vitamin D cần thiết.
Cần chú ý là kem chống nắng hoặc kính cửa sổ có thể cản trở một phần tia cực tím trong ánh nắng mặt trời, làm giảm khả năng tổng hợp vitamin D của cơ thể.
Về mặt sinh học, vitamin D thu được từ việc tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, thực phẩm và chất bổ sung vẫn chưa có tác dụng, mà phải trải qua 2 lần phản ứng hydroxyl hóa trong cơ thể để kích hoạt. Quá trình hydroxyl hóa đầu tiên xảy ra ở gan, chuyển đổi vitamin D thành 25-hydroxyvitamin D [25(OH)D] hay “calcidiol”. Quá trình hydroxyl hóa thứ hai xảy ra chủ yếu ở thận và tạo thành 1,25-dihydroxyvitamin D [1,25(OH)2D] có hoạt tính sinh lý, còn được gọi là “calcitriol”.
Bổ sung vitamin D
Để phòng ngừa việc thiếu vitamin D, người ta có thể dùng các thực phẩm chế biến có thêm vitamin D, như các loại sữa, sữa chua (yaourt), ngũ cốc hay bột dinh dưỡng, bánh kẹo, thực phẩm bổ sung, hoặc dùng thêm các loại thuốc có chứa vitamin D với liều thấp.
Tùy theo trường hợp, liều lượng vitamin D bổ sung được khuyến nghị hàng ngày là từ 400 IU – 4.000 IU (hoặc 25 – 100 mcg) là đủ để đảm bảo lượng tối ưu trong máu cho hầu hết mọi người.
Vitamin D thuộc loại hòa tan trong chất béo, nên có thể tích trữ trong mô mỡ một thời gian để cơ thể sử dụng lâu dài.
Để cơ thể tối đa hóa khả năng hấp thụ vitamin D, cũng cần dùng khẩu phần thực phẩm có đủ lượng chất béo cần thiết. Ngoài ra, acid béo omega-3 và các vitamin tan trong chất béo khác, như vitamin A và vitamin K, cũng có vai trò hỗ trợ hoạt tính sinh học của vitamin D.
Ngộ độc vitamin D
Các trường hợp ngộ độc thường chỉ xảy ra khi dùng vitamin D lâu dài với liều rất cao (từ 40.000 – 100.000 IU), chủ yếu là do nhầm lẫn hoặc do dùng quá nhiều các sản phẩm bổ sung hay thực phẩm chức năng chứa lượng vitamin D không được kiểm soát.
Ngộ độc vitamin D làm tăng calci huyết, có thể gây buồn nôn, nôn mửa, yếu cơ, rối loạn tâm thần kinh, đau, chán ăn, tiểu nhiều gây mất nước, khát nước quá mức và sỏi thận. Các tình trạng này thường có thể hồi phục, nhưng những trường hợp nghiêm trọng có thể gây suy thận và vôi hóa động mạch.
Trong trường hợp có nghi ngờ về việc sử dụng vitamin D, bạn nên tham khảo ý kiến của bác sĩ điều trị.
Ý kiến của bạn
{% item.name %}
{% item.comment %}