Tăng huyết áp là một trong những yếu tố hợp thành nguy cơ tim mạch, tức là khả năng có thể gây ra một “sự biến” tim mạch trong một khoảng thời gian nào đó. Các thành phần chính yếu của nguy cơ được biết khá tường tận và như sau:
+ Các yếu tố có thể thay đổi được: LDL cholesterol cao và/hay HDL cholesterol thấp; Tăng huyết áp; Đái tháo đường; Nghiện thuốc lá; Béo phì; Ăn không ngồi rồi.
+ Các yếu tố không thay đổi được: Tuổi đời; Nam giới; Tiền sử gia đình.
✔ Hội chứng chuyển hóa
Là kết hợp nhiều dị thường chuyển hóa và tim mạch mà toàn bộ mang nguy cơ tim mạch đặc biệt nghiêm trọng.
Ý nghĩ đặt thành một “hội chứng” cá biệt bị không thừa nhận hợp thức; các tiêu chuẩn còn đang tranh luận. Tuy nhiên, ở phương Tây, tập hợp này lại thường được sử dụng. Các tác giả đánh giá 30 đến 40% dân số trung niên mắc phải và có tỷ lệ rất cao về mắc bệnh – tử vong tim mạch. Nguy cơ xuất hiện bệnh đái tháo đường nhân làm 3 đến 6 lần hơn. Cuối cùng, hội chứng này kết hợp với nhiều thương tổn hạ lâm sàng các tạng bia. Điều trị cơ bản là dựa trên thực chế, chủ yếu là giảm cân và vận động cơ thể. Ngược lại, không có dữ liệu để khuyên dùng thuốc. Ở ta, được khuyên giữ huyết áp tâm thu dưới 130mmHg ở người suy thận và dưới 125mmHg nếu có đái tháo đường kèm theo.
✔ Tổn hại hạ lâm sàng ở thận
Độ mươi năm gần đây, lâm sàng để ý kết hợp vi albumin niệu (từ 30 đến 300mg/24 tiếng) với gia tăng nguy cơ tim mạch. Trong dân chúng chung, vi albumin niệu là chỉ diện nguy cơ tim mạch, nguy cơ đái tháo đường, biến tính chức năng thận và tỷ lệ tử vong chung tăng. Thêm vào đó vi albumin niệu là chỉ diện nguy cơ phát triển cao huyết áp ở người huyết áp bình thường. Khoảng 20% người bệnh cao huyết áp mắc phải vi albumin niệu, dĩ nhiên kết hợp với gia tăng nguy cơ tim mạch. Ý nghĩa sinh lý của hiện tượng này chưa thật rõ ràng. Có thể chỉ là biểu lộ đơn giản của tăng huyết áp ở tiểu cầu với tăng siêu lọc; hoặc giả, đã là dấu vết một thương tổn tiểu cầu. Đảo ngược được vi albumin niệu nhờ điều trị bằng ức chế hệ renin – angiotensin biện minh tốt cho thuyết thứ nhất. Kể ra, hai tình huống có chiều hướng nối tiếp nhau.
✔ Tăng huyết áp và nguy cơ ở thận
Khi có một bệnh thận, tăng huyết áp bao giờ cũng là yếu tố nặng thêm và phải được điều trị chặt chẽ. Ngược lại, sự thể tăng huyết áp, tự nó, tạo thương tổn gọi xơ cứng thận lành trên thận khỏe mạnh còn bàn cãi nhiều. Không bàn ở đây xơ cứng thận ác tính, bệnh nặng, cơ chế phức tạp, rất ít gặp hiện nay.
Nhiều thống kê trong nước (Pháp) chứng minh tăng huyết áp là nguyên nhân chính yếu suy thận mãn (thứ nhì sau đái tháo đường). Ở Mỹ, tăng huyết áp liên hệ đến 29% bệnh thận đến giai đoạn phải lọc máu bằng thận nhân tạo (26% người da trắng, 36% người da đen); tỷ lệ này chỉ có 12% ở Âu châu và chỉ có 6 đến 7% ở Á châu; các số này, dĩ nhiên bị méo mó do nhiều quanh co rõ rệt; vì lẽ, tất cả suy thận tiến triển đều tăng huyết áp và chẩn đoán xơ cứng thận chỉ đặc biệt được hợp thức bằng mô học mà thôi.
✔ Tổng kê
Cơ quan “quyền lực khoa học tối cao” ở Pháp có khuyên áp dụng vài loại tổng kê thông dụng để phát hiện tối thiểu tăng huyết áp thứ phát; đánh giá thương tổn tạng bia và định lượng nguy cơ tim mạch; tất cả không phù hợp hoàn cảnh ở ta nên không ghi ở đây.
✔ Điều trị
Mục tiêu điều trị không phải, tự nó, để hạ số huyết áp đến trị số gọi là “bình thường”; mà tránh, trong chừng mực có thể, các tai biến tim mạch và tử vong liên quan. Như thế, các ngưỡng của thuốc điều trị và số huyết áp bia đều khác nhau tùy nguy cơ tim mạch của người bệnh. Mặt khác, điều trị các yếu tố nguy cơ khác thuộc cùng một chiến lược. Cuối cùng, giữ gìn các nguyên tắc vệ sinh – tiết chế đơn giản thường giúp ích rất nhiều.
✔ Hợp thức hóa
Nhiều công trình nghiên cứu nghiêm túc có kiểm tra đánh giá hiệu nghiệm điều trị tăng huyết áp. Kết luận như sau:
– Điều trị giảm tỷ lệ bệnh – tử vong tim mạch;
– Lợi này bao gồm tất cả lứa tuổi, gồm cả bệnh nhân trên 80 bị cao huyết áp tâm thu riêng lẻ;
– Lợi này giống nhau ở cả hai giới tính và tất cả dân tộc.
Ý kiến của bạn
{% item.name %}
{% item.comment %}