✔ Căn nguyên tụt huyết áp thế đứng
Huyết áp động mạch tức là áp lực của dòng máu tác động lên thành động mạch. Khi tim co bóp, máu sẽ được đẩy đi và ép vào thành của động mạch làm cho thành động mạch căng ra và được gọi huyết áp tâm thu (huyết áp cao nhất). Sau khi co bóp, tim sẽ dãn ra và khi đó thành động mạch sẽ co lại về trạng thái ban đầu, số đo ở thời điểm này là huyết áp tâm trương (huyết áp thấp nhất). Ở người bình thường, chỉ số huyết áp mục tiêu là 120/80mmHg. Khi huyết áp vào khoảng 140/90mmHg được gọi là tăng huyết áp, khi huyết áp dưới 100/80mmHg, được gọi là huyết áp thấp và khi huyết áp dưới 90/60mmHg được gọi là tụt huyết áp. Như vậy, huyết áp thấp khác với tụt huyết áp.
Nguyên nhân của tụt huyết áp rất đa dạng. Có huyết áp thấp sinh lý và huyết áp thấp bệnh lý (tụt huyết áp). Huyết áp thấp sinh lý thường gặp ở những người khỏe mạnh với đặc điểm huyết áp thấp duy trì trong suốt cuộc đời, có thể do thể trạng, do ở vùng núi cao (để thích nghi với sự thiếu oxy do không khí loãng trường diễn) hoặc do di truyền. Vì vậy, huyết áp thấp sinh lý khó phát hiện được những biến đổi khác thường khi chẩn đoán lâm sàng cũng như xét nghiệm hoặc cận lâm sàng.
Có 2 loại tụt huyết áp, đó là tụt huyết áp cấp tính và tụt huyết áp mãn tính. Tụt huyết áp cấp tính thường biểu hiện hoa mắt chóng mặt, vã mồ hôi, rất mệt, đánh trống ngực, đôi khi bị ngất xỉu. Tụt huyết áp cấp tính có thể do xuất huyết (dưới da, niêm mạc, tiêu hóa, tiết niệu,…), do dùng thuốc hạ huyết áp quá liều, do hạ đường huyết (đường huyết dưới 2,5mmol/l), do chấn thương chảy máu nhiều. Tụt huyết áp mãn tính có thể là nguyên phát do giảm trương lực thần kinh – mạch máu, do thiếu máu hoặc mắc bệnh nhiễm trùng cấp tính (nhiễm trùng huyết) hoặc mãn tính (viêm họng mãn, viêm loét dạ dày – tá tràng, viêm đường mật, sâu răng, viêm lợi…) hoặc do ngộ độc thức ăn, ngộ độc độc tố của vi khuẩn và các chất độc trong phân (người bị táo bón kéo dài). Ngoài ra tụt huyết áp còn có thể do rối loạn chức năng tuyến thượng thận (bệnh Addison), bệnh tuyến yên hoặc bệnh tuyến giáp làm thiếu hụt hormon hoặc do giảm đường huyết (glucose huyết). Giảm đường huyết có thể do ăn thiếu bữa, thiếu số lượng tinh bột (cơm, bánh mì), do suy dinh dưỡng, lười uống nước, ít ăn rau quả. Do chế độ dinh dưỡng không hợp lý, ăn uống kém hoặc do ốm yếu nằm lâu ngày, ít vận động làm ảnh hưởng đến trương lực cơ tim, trương lực thành mạch, dẫn đến thiếu máu nuôi dưỡng các cơ quan, đặc biệt là tim và não bộ gây nên tụt huyết áp. Tụt huyết áp cũng có thể do tác động của chan thương tâm lý liên tục (stress), hoặc có thể do thiếu hụt hemoglobin (nếu thấp dưới 9g/dl sẽ làm cho lượng oxy vận chuyển tới não bộ và tim bị giảm). Tụt huyết áp còn do dùng một số thuốc ảnh hưởng đến huyết áp như là thuốc lợi tiểu, thuốc chữa cao huyết áp, thuốc chữa bệnh tim mạch, thuốc chữa bệnh Parkinson. Hiếm hơn là bị tụt huyết áp sau khi ăn, do lượng máu dồn nhiều xuống cơ quan tiêu hóa để tiêu hóa thức ăn. Ngoài ra có một số tụt huyết áp thế đứng chưa xác định được nguyên nhân gây khó khăn cho điều trị.
✔ Triệu chứng
Muốn biết có bị tụt huyết áp hay không thì chỉ cần đo huyết áp. Để bệnh nhân nằm nghỉ khoảng 20 phút rồi đo huyết áp ở tư thế nằm. Sau đó cho bệnh nhân đứng dậy. Sau khi đứng từ 5 đến 10 phút sẽ đo huyết áp ở tư thế này. Nếu thấy huyết áp tâm thu tụt xuống xấp xỉ 20mmHg so với huyết áp khi nằm thì gọi tụt huyết áp khi đứng. Triệu chứng của tụt huyết áp là rất mệt, hoa mắt, chóng mặt thở dốc, vã mồ hôi, tay chân lạnh toát, buồn nôn, có thể bị ngất xỉu. Ngoài ra, người bị tụt huyết áp kéo dài, mạn tính thường rất lười hoạt động, lười suy nghĩ, rất muốn nghỉ ngơi, thiếu tập trung tư tưởng, dễ cáu giận, chóng quên, và có thể làm giảm khả năng tình dục. Để chẩn đoán tụt huyết áp bệnh lý cần làm xét nghiệm máu, điện tim, siêu âm tim. Ngoài ra có thể kiểm tra sức khỏe tim, trong đó người bệnh sẽ thực hành các hoạt động như đi bộ trên máy, để làm sao cho tim hoạt động mạnh hơn. Kể cả kiểm tra lưu luợng máu tuần hoàn bất thường của cơ tim và van tim.
✔ Phòng tụt huyết áp
Để phòng tụt huyết áp cần có chế độ ăn, uống hợp lý (đủ chất và đủ lượng), không nên bỏ bữa và uống đủ lượng nước hàng ngày. Nên ăn nhiều rau trong các bữa ăn chính. Ngoài ra, nên ăn các loại quả để tăng vi chất cần thiết và bổ sung thêm lượng nước. Có thể uống cà phê hoặc trà vào các buổi sáng. Nên có vận động cơ thể, không nên ngồi lâu một chỗ. Hình thức vận động cơ thể tùy theo điều kiện và tùy theo sức khỏe của từng người. Cần ngủ đủ thời gian cần thiết trong ngày từ 7 – 8 giờ, đặc biệt chú ý đến chất lượng của giấc ngủ. Cần tuân thủ uống thuốc theo đơn của bác sĩ khám bệnh cho mình.
Ý kiến của bạn
{% item.name %}
{% item.comment %}