Hiểu bệnh A-Z - Tim mạch

23/02/2023 GMT+0700

Phòng tụt huyết áp khi đứng

PGS.TS Bùi Khắc Hậu

Căn nguyên tụt huyết áp thế đứng

Huyết áp động mạch tức là áp lực của dòng máu tác động lên thành động mạch. Khi tim co bóp, máu sẽ được đẩy đi và ép vào thành của động mạch làm cho thành động mạch căng ra và được gọi huyết áp tâm thu (huyết áp cao nhất). Sau khi co bóp, tim sẽ dãn ra và khi đó thành động mạch sẽ co lại về trạng thái ban đầu, số đo ở thời điểm này là huyết áp tâm trương (huyết áp thấp nhất). Ở người bình thường, chỉ số huyết áp mục tiêu là 120/80mmHg. Khi huyết áp vào khoảng 140/90mmHg được gọi là tăng huyết áp, khi huyết áp dưới 100/80mmHg, được gọi là huyết áp thấp và khi huyết áp dưới 90/60mmHg được gọi là tụt huyết áp. Như vậy, huyết áp thấp khác với tụt huyết áp.

Nguyên nhân của tụt huyết áp rất đa dạng. Có huyết áp thấp sinh lý và huyết áp thấp bệnh lý (tụt huyết áp). Huyết áp thấp sinh lý thường gặp ở những người khỏe mạnh với đặc điểm huyết áp thấp duy trì trong suốt cuộc đời, có thể do thể trạng, do ở vùng núi cao (để thích nghi với sự thiếu oxy do không khí loãng trường diễn) hoặc do di truyền. Vì vậy, huyết áp thấp sinh lý khó phát hiện được những biến đổi khác thường khi chẩn đoán lâm sàng cũng như xét nghiệm hoặc cận lâm sàng.

Có 2 loại tụt huyết áp, đó là tụt huyết áp cấp tính và tụt huyết áp mãn tính. Tụt huyết áp cấp tính thường biểu hiện hoa mắt chóng mặt, vã mồ hôi, rất mệt, đánh trống ngực, đôi khi bị ngất xỉu. Tụt huyết áp cấp tính có thể do xuất huyết (dưới da, niêm mạc, tiêu hóa, tiết niệu,…), do dùng thuốc hạ huyết áp quá liều, do hạ đường huyết (đường huyết dưới 2,5mmol/l), do chấn thương chảy máu nhiều. Tụt huyết áp mãn tính có thể là nguyên phát do giảm trương lực thần kinh – mạch máu, do thiếu máu hoặc mắc bệnh nhiễm trùng cấp tính (nhiễm trùng huyết) hoặc mãn tính (viêm họng mãn, viêm loét dạ dày – tá tràng, viêm đường mật, sâu răng, viêm lợi…) hoặc do ngộ độc thức ăn, ngộ độc độc tố của vi khuẩn và các chất độc trong phân (người bị táo bón kéo dài). Ngoài ra tụt huyết áp còn có thể do rối loạn chức năng tuyến thượng thận (bệnh Addison), bệnh tuyến yên hoặc bệnh tuyến giáp làm thiếu hụt hormon hoặc do giảm đường huyết (glucose huyết). Giảm đường huyết có thể do ăn thiếu bữa, thiếu số lượng tinh bột (cơm, bánh mì), do suy dinh dưỡng, lười uống nước, ít ăn rau quả. Do chế độ dinh dưỡng không hợp lý, ăn uống kém hoặc do ốm yếu nằm lâu ngày, ít vận động làm ảnh hưởng đến trương lực cơ tim, trương lực thành mạch, dẫn đến thiếu máu nuôi dưỡng các cơ quan, đặc biệt là tim và não bộ gây nên tụt huyết áp. Tụt huyết áp cũng có thể do tác động của chan thương tâm lý liên tục (stress), hoặc có thể do thiếu hụt hemoglobin (nếu thấp dưới 9g/dl sẽ làm cho lượng oxy vận chuyển tới não bộ và tim bị giảm). Tụt huyết áp còn do dùng một số thuốc ảnh hưởng đến huyết áp như là thuốc lợi tiểu, thuốc chữa cao huyết áp, thuốc chữa bệnh tim mạch, thuốc chữa bệnh Parkinson. Hiếm hơn là bị tụt huyết áp sau khi ăn, do lượng máu dồn nhiều xuống cơ quan tiêu hóa để tiêu hóa thức ăn. Ngoài ra có một số tụt huyết áp thế đứng chưa xác định được nguyên nhân gây khó khăn cho điều trị.

Triệu chứng

Muốn biết có bị tụt huyết áp hay không thì chỉ cần đo huyết áp. Để bệnh nhân nằm nghỉ khoảng 20 phút rồi đo huyết áp ở tư thế nằm. Sau đó cho bệnh nhân đứng dậy. Sau khi đứng từ 5 đến 10 phút sẽ đo huyết áp ở tư thế này. Nếu thấy huyết áp tâm thu tụt xuống xấp xỉ 20mmHg so với huyết áp khi nằm thì gọi tụt huyết áp khi đứng. Triệu chứng của tụt huyết áp là rất mệt, hoa mắt, chóng mặt thở dốc, vã mồ hôi, tay chân lạnh toát, buồn nôn, có thể bị ngất xỉu. Ngoài ra, người bị tụt huyết áp kéo dài, mạn tính thường rất lười hoạt động, lười suy nghĩ, rất muốn nghỉ ngơi, thiếu tập trung tư tưởng, dễ cáu giận, chóng quên, và có thể làm giảm khả năng tình dục. Để chẩn đoán tụt huyết áp bệnh lý cần làm xét nghiệm máu, điện tim, siêu âm tim. Ngoài ra có thể kiểm tra sức khỏe tim, trong đó người bệnh sẽ thực hành các hoạt động như đi bộ trên máy, để làm sao cho tim hoạt động mạnh hơn. Kể cả kiểm tra lưu luợng máu tuần hoàn bất thường của cơ tim và van tim.

Phòng tụt huyết áp

Để phòng tụt huyết áp cần có chế độ ăn, uống hợp lý (đủ chất và đủ lượng), không nên bỏ bữa và uống đủ lượng nước hàng ngày. Nên ăn nhiều rau trong các bữa ăn chính. Ngoài ra, nên ăn các loại quả để tăng vi chất cần thiết và bổ sung thêm lượng nước. Có thể uống cà phê hoặc trà vào các buổi sáng. Nên có vận động cơ thể, không nên ngồi lâu một chỗ. Hình thức vận động cơ thể tùy theo điều kiện và tùy theo sức khỏe của từng người. Cần ngủ đủ thời gian cần thiết trong ngày từ 7 – 8 giờ, đặc biệt chú ý đến chất lượng của giấc ngủ. Cần tuân thủ uống thuốc theo đơn của bác sĩ khám bệnh cho mình.

[Banner Mid] Hồng Phát


Ý kiến của bạn

{% item.name %}

{% item.comment %}

Đọc thêm

sile

Phòng đột quỵ khi tập thể dục chơi thể thao

07/01/2024 06:50:00 GMT+0700

Đột quỵ khi chơi thể thao, tập luyện thể dục có thể gặp ở bất kỳ đối tượng nào ngay cả ở những người còn trẻ; tuy vậy, thường gặp nhất vẫn là ở người đã có sẵn các yếu tố nguy cơ như mắc bệnh nền, tuổi cao kết hợp thời tiết nóng, lạnh đột ngột. Vì vậy, đối với các đối tượng có nguy cơ cao cần hết sức cảnh giác khi tập thể dục, chơi thể thao, đặc biệt khi thời tiết khắc nghiệt (nóng quá hoặc lạnh quá).

sile

Hiểu đúng về nhịp tim nhanh - chậm

08/09/2023 04:04:00 GMT+0700

Có một tình trạng diễn ra trong cơ thể liên quan đến quả tim mà chúng ta sẽ rất ngạc nhiên, đó là tim hoạt động không mệt mỏi với gần 100.000 lần đập (co bóp) trong một ngày, như vậy mỗi năm tim đập 37 triệu lần và nói chung một đời người trung bình có đến 3 tỉ lần tim đập. Đúng là một bộ phận hoạt động bền bỉ và hiệu quả. Bình thường tim co bóp đều đặn (tiếng tim nghe được với khoảng cách thời gian đều nhau) nhưng đôi khi tim của chúng ta đập nhanh đột ngột mà không có lý do gì.

sile

Hẹp van 2 lá

05/09/2023 01:54:00 GMT+0700

Van 2 lá có cấu trúc từ tổ chức xơ sợi gồm có 2 lá van: lá van trước với sợi xơ liên tục vòng van động mạch chủ và lá van sau được cố định bởi vòng van. Van 2 lá là nơi nối liền nhĩ trái và thất trái. Máu sẽ di chuyển một chiều từ nhĩ xuống thất, buồng tâm nhĩ có áp suất thấp, thành mỏng (như là một bình chứa máu đưa về tâm thất), trong khi đó tâm thất là một cái bơm (bơm máu ra động mạch chủ).

sile

COVID-19 & bệnh lý tim mạch

27/08/2023 06:40:00 GMT+0700

Từ tháng 12.2019, chủng virus corona mới (SARS-CoV-2) đã gây dịch nhiễm trùng hô hấp cấp tính (COVID-19) tại thành phố Vũ Hán (tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc), sau đó lan rộng ra hầu hết các nước trên thế giới, đến mức tháng 3.2020, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) phải công bố COVID-19 là đại dịch toàn cầu. Các nghiên cứu lâm sàng cũng cho thấy mối liên quan giữa COVID-19 và bệnh lý tim mạch.

sile

COVID-19 & bệnh nhân tăng huyết áp

27/08/2023 06:30:00 GMT+0700

Tăng huyết áp (hay huyết áp cao) là tình trạng thường gặp ở người cao tuổi. Các thống kê tại Việt Nam cũng như tại nhiều nước đều cho thấy: hơn 60% những người từ 60 tuổi trở lên đều có triệu chứng tăng huyết áp. Tuy nhiên, có nhiều người đang bị tăng huyết áp nhưng do chủ quan hoặc không có điều kiện kiểm tra huyết áp nên không biết mình đang mắc bệnh này.

sile

Phòng ngừa bệnh lý tim mạch không dùng thuốc

20/08/2023 03:14:00 GMT+0700

Bệnh lý tim mạch là nguyên nhân gây ra tử vong đứng hàng đầu, ở mọi quốc gia. Ngoài yếu tố bẩm sinh, đa số trường hợp là do mắc phải, trong đó có sai lầm trong lối sống.

sile

{% item.title %}

{% item.time_ago %}

{% item.short_description %}