Vì vậy, hen là một vấn đề được các nhà chuyên môn quan tâm và bỏ nhiều công sức nghiên cứu để đưa ra những giải pháp điều trị.
Các chuyên gia hàng đầu của nhiều nước trên thế giới đã đưa ra hướng dẫn Chiến lược toàn cầu về chăm sóc và phòng ngừa hen suyễn (Global Strategy for Asthma Management and Prevention), trong đó có 4 bước cần thiết để kiểm soát tốt bệnh hen:
– Thiết lập mối quan hệ đối tác giữa bệnh nhân và bác sĩ nhằm giáo dục người bệnh kiến thức về bệnh hen, cách sử dụng thuốc đúng.
– Xác định yếu tố nguy cơ gây cơn hen và biện pháp phòng tránh.
– Đánh giá mức độ nặng, điều trị và theo dõi.
– Xử trí các cơn hen kịch phát.
Ngày nay, dạng thuốc hít có chứa corticosteroid và thuốc dãn phế quản giúp kiểm soát hen hiệu quả và an toàn, được xem là một tiến bộ đáng kể trong điều trị hen.
Tuy nhiên, theo thống kê ở Mỹ có đến 5 – 10% bệnh nhân hen không thể kiểm soát tốt dù đã dùng thuốc corticosteroid dạng hít liều cao hoặc dạng viên. Những bệnh nhân này được xếp vào nhóm hen khó trị hay hen kháng thuốc corticosteroid. Đã có hai phương pháp mới được Cơ quan Quản lý Thực Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê chuẩn là thuốc chẹn IgE (IgE blockers) omalizumab (Xolair) và phương pháp chỉnh hình phế quản bằng nhiệt (Bronchial Thermoplasty).
Thuốc chẹn IgE
IgE là một loại kháng thể được cơ thể sản xuất với một lượng rất nhỏ và lưu chuyển trong máu. Ở người bị dị ứng, lượng IgE tăng cao. Qua nghiên cứu, người ta đã xác định được cách IgE tương tác với những tế bào tác động (effector cells) của cơ thể như đại thực bào, tế bào T, tế bào B, bạch cầu ưa base và tế bào nuôi được kích hoạt để phóng thích ra những chất ví dụ như histamin gây ra triệu chứng của phản ứng dị ứng. Người ta nhận thấy nồng độ IgE tăng cao trong huyết thanh thường kết hợp với chứng khò khè dai dẳng, tăng đáp ứng đường thở. Ngoài ra IgE còn đóng vai trò chủ chốt trong bệnh dị ứng, viêm mũi theo mùa, dị ứng thức ăn, mề đay, chàm, sốc phản vệ. Những nghiên cứu này không chỉ giúp ta hiểu dị ứng và hen xảy ra như thế nào mà còn gợi ý cho việc điều chế ra loại thuốc mới điều trị hen và dị ứng.
Có thể dễ dàng đo nồng độ IgE trong máu bằng một xét nghiệm đơn giản. IgE tăng cao có nghĩa cơ thể mẫn cảm với một chất nào đó, nhưng không phải đương nhiên dị ứng với kháng nguyên này. Vẫn có khả năng IgE trong máu cao nhưng không có hiện tượng dị ứng nào cả. Để kết luận một người dị ứng với một chất nào đó cần hội đủ hai điều kiện:
– Có phản ứng dương tính với một kháng nguyên.
– Có tiền sử có phản ứng với kháng nguyên này.
Thiếu một trong hai yếu tố trên không thể kết luận là dị ứng.
Omalizumab là thuốc đặc hiệu cho những bệnh nhân hen do dị ứng gây ra qua trung gian của IgE. Vào cơ thể, omalizumab sẽ gắn kết với IgE lưu chuyển trong cơ thể, do đó hen được điều trị theo cơ chế khác hẳn với những thuốc trị hen trước đây. Vì hầu hết IgE trong máu kết nối với omalizumab nên lượng IgE tự do trong cơ thể sẽ giảm xuống, do đó lượng chất trung gian gây phản ứng viêm được phóng thích sẽ hạn chế nhờ vậy, triệu chứng hen và dị ứng sẽ nhẹ hơn. Thuốc này không phải là thuốc hạ cơn nên không được dùng trong cơn kịch phát.
FDA phê chuẩn omalizumab được chỉ định cho:
– Những bệnh nhân từ 12 tuổi trở lên.
– Có triệu chứng hen nặng dai dẳng đồng thời bị dị ứng.
– Không kiểm soát được với thuốc corticosteroids hạng hít.
– Có phản ứng da dương tính với một kháng nguyên đặc hiệu.
Thuốc được dùng dưới dạng tiêm dưới da, 2 – 4 tuần một lần, liều lượng dựa trên cân nặng và nồng độ IgE trong máu. Bắt buộc phải tiêm tại bệnh viện hoặc cơ sở y tế có sự theo dõi của bác sĩ.
Theo nghiên cứu, omalizumab giúp giảm cơn hen kịch phát ở những người hen dị ứng thể vừa và nặng không kiểm soát được dù đã dùng thuốc corticosteroid dạng hít. Những người dùng omalizumab nếu sử dụng thuốc corticosteroid liều thấp hơn vẫn không lên cơn hen. Nhưng, omalizumab không hiệu quả cho tất cả bệnh nhân hen.
Những phản ứng phụ có thể gặp là: viêm tại chỗ tiêm, nhiễm siêu vi, viêm hô hấp trên, nhức đầu, đau họng, đau khớp, mệt mỏi, sốc phản vệ,...
Chỉnh hình phế quản bằng nhiệt
Là phương pháp đầu tiên điều trị hen không dùng thuốc. Phương pháp này đã được khảo sát tại nhiều nước như Australia, Brasil, Canada, Hà Lan, Anh và Mỹ.
Dựa vào cơ chế khi lên cơn hen, lớp cơ trơn ở phế quản co thắt làm hẹp lòng phế quản gây khó thở. Các nhà nghiên cứu nghĩ ra giải pháp dùng thiết bị luồn qua ống nội soi đến phế quản và dùng nhiệt làm giảm bớt khối lượng cơ trơn nhờ đó giảm sự co thắt phế quản làm nhẹ triệu chứng hen.
Theo FDA, phương pháp chỉnh hình phế quản bằng nhiệt được chỉ định cho:
– Bệnh nhân hen thể nặng dai dẳng tuổi từ 18 trở lên không kiểm soát hoặc kém kiểm soát dù đã dùng thuốc dạng hít corticosteroid liều cao kết hợp thuốc giãn phế quản.
– Các bệnh nhân này phải chịu đựng được nội soi phế quản.
Không dùng phương pháp này cho người mang máy tạo nhịp, khử rung, cấy ghép thiết bị điện tử. Những người có tiền sử dị ứng với thuốc dùng trước khi nội soi như lidocain, atropin, benzodiazepin cũng không được chỉ định.
Thiết bị được dùng là một hệ thống gồm một ống thông và một điện cực truyền năng lượng tần số vô tuyến (là một dạng năng lượng điện từ) đến trực tiếp các phế quản, ngoài ra còn có một bộ phận gọi là đơn vị phân phối và kiểm soát nguồn năng lượng. Khi vào đến phế quản, nguồn năng lượng nhiệt tần số vô tuyến (thermal radiofrequency energy) làm nóng mô tại đây một cách có kiểm soát để làm giảm khối lượng cơ tức là độ dày của lớp cơ trong vách phế quản. Thủ thuật này được tiến hành làm 3 đợt, mỗi đợt sẽ nhắm vào một vị trí khác nhau trong phổi và cách 2 tuần một lần.
Qua khảo sát, phương pháp này đã mang lại những kết quả đáng khích lệ: Giảm số lần lên cơn hen đến 33%, giảm số lần phải đi cấp cứu vì cơn hen kịch phát 84%, giảm số ngày nghỉ việc, nghỉ học và sinh hoạt trong gia đình 66%, giảm số lần nhập viện 73%.
Những hạn chế của phương pháp này là phải thực hiện qua nội soi phế quản nên có những bất tiện. Tai biến có thể xảy ra: cơn hen kịch phát, khò khè, đau ngực, xẹp phổi, xuất huyết gây ho ra máu, lo âu, nhức đầu, buồn nôn.
Ý kiến của bạn
{% item.name %}
{% item.comment %}