
Diphenhydramine có thể gây buồn ngủ và suy giảm chức năng vận động. Ảnh: Canva
Nguy cơ nhiều hơn hơn lợi ích
Diphenhydramine là thuốc kháng histamine đầu tiên được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) cấp phép điều trị dị ứng vào năm 1946. Thuốc hoạt động bằng cách khóa các thụ thể H1 – những “cổng” chính trong hệ thống phản ứng của cơ thể với các chất gây dị ứng, gây ra các triệu chứng như hắt hơi, ngứa và chảy nước mũi.
Đến thập niên 70, sau khi tác dụng không mong muốn của diphenhydramine như an thần và đối kháng cholinergic trở nên rõ ràng, ngành dược đã “tận dụng” những tác dụng phụ này để đưa nó vào các sản phẩm thuốc trị ho, cảm lạnh không cần kê đơn (OTC) và thuốc hỗ trợ ngủ. Ở đây, đặc tính đối kháng cholinergic của diphenhydramine là ức chế hoạt động hệ phó giao cảm dẫn đến các hiệu ứng như giãn phế quản, giảm tiết dịch, giảm nhu động ruột và đặc biệt là an thần.
Ngày nay, diphenhydramine có mặt trong hơn 300 dạng sản phẩm, chủ yếu là thuốc OTC, thuộc các nhóm điều trị dị ứng, ho, cảm lạnh và hỗ trợ giấc ngủ. Thuốc có nhiều dạng bào chế (dạng lỏng, viên nén, viên nang, tiêm, bôi ngoài da), dạng đơn chất hoặc phối hợp, giúp chúng trở thành một trong những loại thuốc mà con người dễ tiếp cận nhất.
Tuy nhiên, trong vài năm gần đây các chuyên gia bắt đầu nhìn nhận lại những vấn đề của diphenhydramine. Trên đài CNN ngày 1/8/2025, tiến sĩ Anna Wolfson, bác sĩ chuyên ngành dị ứng Bệnh viện đa khoa Massachusetts (Hoa Kỳ), đã chia sẻ những gì bà chứng kiến về sự lạm dụng nguy hiểm của thuốc này: “Khi thấy ai đó phản ứng dị ứng với thức ăn, mọi người sẽ nói: ‘Đừng lo, tôi có diphenhydramine trong túi’, nhưng thực tế epinephrine (adrenaline) mới là thuốc đầu tay theo phác đồ điều trị”.
Trường hợp này, theo Wolfson, dùng diphenhydramine hoàn toàn không đúng và có thể gây hại nghiêm trọng bởi chúng gây buồn ngủ, khiến người bệnh bỏ qua các dấu hiệu cảnh báo khi tình trạng dị ứng chuyển biến xấu.
Trong thực tế, an thần là lo ngại lớn nhất với tất cả thuốc kháng histamine thế hệ thứ nhất, và diphenhydramine là điển hình. Khác với các thuốc thế hệ mới sau này, diphenhydramine dễ dàng vượt qua hàng rào máu–não và thiếu tính chọn lọc đối với thụ thể H1. Hậu quả là thuốc ức chế tác dụng dẫn truyền thần kinh của histamine nội sinh trong hệ thần kinh trung ương, dẫn đến hàng loạt tác dụng bất lợi như an thần, buồn ngủ và suy giảm chức năng vận động–tâm thần.
Các tác dụng tương tự này hầu như không có với fexofenadine, hoặc không nhiều với cetirizine hoặc loratadine, là các thuốc kháng histamine thế hệ thứ hai.
Nhưng ngay cả khi được dùng như một thuốc hỗ trợ giấc ngủ, tác dụng của diphenhydramine có thể kéo dài đến ngày hôm sau, bởi thời gian bán hủy của thuốc (thời gian để nồng độ thuốc trong máu giảm còn một nữa) có thể kéo dài đến 18 giờ ở người lớn tuổi.
Tác dụng gây ngủ kéo dài này của thuốc đã dẫn đến tăng nguy cơ té ngã, mất phương hướng hoặc tai nạn giao thông ở người cao tuổi. Vì thế, Liên minh Châu Âu đã xếp diphenhydramine vào danh mục thuốc “không được sử dụng khi lái xe”. Tương tự, Cục Hàng không Liên bang Hoa Kỳ (FAA) cấm cấp chứng nhận y tế cho phi công đang dùng thuốc kháng histamine gây buồn ngủ, trong khi các thuốc kháng histamin thế hệ mới không gây buồn ngủ như fexofenadine và desloratadine vẫn được phép.
| “THỬ THÁCH BENADRYL”: TRÀO LƯU TIKTOK CHẾT NGƯỜI Tháng 4/2023, nam sinh Jacob Stevens, 13 tuổi, sống tại bang Ohio (Hoa Kỳ) đã chết não và tử vong sau khi tham gia thách thức trên TikTok có tên gọi “Thử thách Benadryl” (Benadryl Challenge) khi uống một lượng lớn Benadryl (tên biệt dược của diphenhydramine). Ghi nhận cho thấy trong khi Stevens lên cơn co giật do dùng thuốc thì bạn bè cậu bé vẫn vô tư quay clip ghi lại những gì đang xảy ra. Stevens chỉ được đưa đến bệnh viện khi cơ thể đã bất động. Trước đó, vào năm 2020, nữ sinh Chloe Marie Phillips, 15 tuổi, cũng qua đời vì tham gia “Thử thách Benadryl”. Liều dùng trong thử thách cao hơn đáng kể so với chỉ định nghiêm ngặt “không quá 6 viên trong vòng 24 giờ”. Những “hiệu ứng” mà người tham gia thử thách mong muốn – như mê sảng, ảo giác thị giác và thính giác, lú lẫn, mất phương hướng, kích động, co giật, hôn mê – thực chất là những dấu hiệu của ngộ độc thuốc nghiêm trọng. Rối loạn nhịp tim và ngừng tim là một trong những rủi ro tử vong chính. Với liều lượng cao, diphenhydramine có thể dẫn đến tổn thương não vĩnh viễn hoặc tử vong. |
Có những chọn lựa an toàn hơn
Vì những bất lợi của diphenhydramine mà TS. Wolfson đã kêu gọi cần loại bỏ thuốc này. Trên CNN, bà nói: “Mọi chỉ định của diphenhydramine đều có những loại thuốc thay thế tốt hơn, hiệu quả hơn nhưng ít tác dụng phụ hơn”.

Các thuốc kháng histamine thế hệ thứ hai không gây nhiều tác dụng phụ . Ảnh minh họa: Canva
Wolfson không đơn độc. Trong một bài nghiên cứu đăng trên tạp chí World Allergy Organization Journal tháng 2 năm nay, các chuyên gia dị ứng của Đại học Johns Hopkins và Đại học California (Hoa Kỳ) cùng lên tiếng kêu gọi loại bỏ diphenhydramine khỏi thị trường thuốc kê đơn và không kê đơn tại Hoa Kỳ bởi thuốc đã lỗi thời, nguy hiểm và bị che mờ bởi các thuốc thay thế an toàn hơn.
Tiến sĩ James Clark, Khoa Tai Mũi Họng - Phẫu thuật Đầu Cổ tại Trường Y Đại học Johns Hopkins (Hoa Kỳ), tác giả chính của nghiên cứu, nói: “Bệnh nhân nên cân nhắc các loại thuốc thay thế như loratadine, cetirizine hoặc fexofenadine để giảm các triệu chứng dị ứng”.
Thực tế diphenhydramine không được khuyến cáo sử dụng ở người có một số vấn đề sức khỏe bao gồm chứng glôcôm góc đóng, khô mắt, loét dạ dày–tá tràng, táo bón và bí tiểu. Các tác giả nghiên cứu đã trích dẫn các trường hợp sử dụng thuốc quá liều vô ý bị kích động, an thần quá mức, hôn mê, thậm chí tử vong, đặc biệt với các dạng bào chế dành cho trẻ em do uống nhầm.
Ngày nay, ngoài Hoa Kỳ, một số nước như Đức, Hà Lan, Thụy Điển đã áp dụng các biện pháp hạn chế khả năng tiếp cận diphenhydramine bằng cách chỉ cho phép bán theo đơn. Các cơ quan y tế Canada, Hoa Kỳ và Anh thì khuyến cáo không dùng các thuốc cảm lạnh có chứa diphenhydramine cho trẻ dưới 5 tuổi (Hoa Kỳ) và dưới 6 tuổi (Canada và Anh).
Về khía cạnh trẻ em, tiến sĩ Alyssa Kuban, bác sĩ nhi khoa và Phó giám đốc chuyên môn Bệnh viện Nhi đồng Texas, nhận thấy diphenhydramine bị lạm dụng quá mức ở trẻ cho các triệu chứng mà nó không thực sự có tác dụng. Bà nói: “Một số gia đình dùng diphenhydramine khi trẻ bị cảm lạnh hoặc nhiễm trùng đường hô hấp trên, nghĩ rằng nó sẽ giúp giảm nghẹt mũi và giúp trẻ ngủ ngon hơn. Nhưng điều này không hiệu quả đối với các triệu chứng cảm lạnh cũng như không an toàn chút nào”.
Thay vào đó, bà khuyên dùng cetirizine không kê đơn để điều trị khi trẻ bị nổi mề đay, dị ứng theo mùa hoặc phát ban ngứa vì thuốc này không chỉ tác dụng lâu hơn mà còn ít gây buồn ngủ hơn diphenhydramine.
| DIPHENHYDRAMINE GIA TĂNG NGUY CƠ MẤT TRÍ NHỚ? Trong một nghiên cứu đăng trên tạp chí JAMA Internal Medicine vào năm 2015, một nhóm chuyên gia người Mỹ đã theo dõi hơn 3.000 người cao tuổi không mắc chứng mất trí nhớ trong 7 năm và phát hiện ra rằng việc sử dụng thuốc đối kháng acetylcholine thường xuyên trong thời gian dài có liên quan đến nguy cơ mắc chứng mất trí nhớ cao hơn 54% và nguy cơ mắc bệnh Alzheimer cao hơn 63%. Theo các tác giả, kết quả này chưa đủ chứng minh diphenhydramine gây ra chứng mất trí nhớ và vẫn chưa rõ liệu nguy cơ này có mở rộng sang người trẻ tuổi hay thậm chí là người sử dụng trong thời gian ngắn hay không. Tuy nhiên, với việc ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy thuốc kháng histamine có liên quan đến suy giảm nhận thức ở người cao tuổi, trên báo New York Times tháng 7/2025, tiến sĩ Malaz Boustani, chuyên gia lão khoa và khoa học thần kinh tại Đại học Indiana (Hoa Kỳ) cho biết ông sẽ không bao giờ kê toa diphenhydramine cho bệnh nhân. |
Theo TSK số 698
![[Banner Top] Medlaw](/uploads/a7259844-bfd9-4875-9a6c-a7f560b6be97.jpg)
![[Banner Top] Hồng Phát](/uploads/88dbe592-ac75-433d-94aa-d42b69ff5a0c.jpg)

![[Banner Mid] Hồng Phát](/uploads/0a12ba57-9f3d-4828-94da-cf937789b409.jpg)

















![[Banner Side] Medlaw](/uploads/b729448e-c98e-455a-9d7a-9e658c271f5b.jpg)
Ý kiến của bạn
{% item.name %}
{% item.comment %}