ECMO cứu sống 80% trẻ mắc tim, phổi nặng
Ý tưởng về phương pháp oxy hóa màng ngoài cơ thể (ECMO: Extracorporeal Membrane Oxygenation) xuất hiện vào năm 1965, khi Robert H. Bartlett còn là một bác sĩ phẫu thuật nội trú làm việc với bác sĩ Robert Gross, chuyên gia phẫu thuật tim nhi khoa tại Bệnh viện Nhi đồng Boston (Mỹ).
Vào thời điểm đó, bệnh nhân chỉ có thể được đặt máy tim phổi nhân tạo trong khoảng một giờ trong quá trình phẫu thuật tim. Vì nếu lâu hơn, việc truyền oxy (O2) vào máu bằng thiết bị này có thể gây tổn thương cho các tế bào máu.
Khi đó, Bartlett đề xuất làm một máy tạo oxy màng - một hình thức phổi nhân tạo thấm khí để bổ sung oxy vào máu và loại bỏ khí carbon dioxide (CO2), giúp máu lưu thông ngoài cơ thể trong nhiều ngày, nhờ đó mà tim, phổi bị tổn thương có thời gian nghỉ ngơi và phục hồi.
Khi nghe ý kiến này, bác sĩ Gross trả lời Bartlett: “Ý tưởng rất hay. Tại sao anh không bắt tay nghiên cứu?”. Lời động viên này là khởi đầu cho một dự án mà bác sĩ Bartlett theo đuổi suốt đời dù ban đầu đã có những thất bại.
Năm 1971, bệnh nhân trưởng thành đầu tiên sống sót sau khi điều trị ECMO. Nhưng một nghiên cứu lâm sàng ban đầu được thiết kế vụng về, dựa trên các quy trình khác nhau và liên quan đến những nhân viên y tế chưa đủ kinh nghiệm khi thực hiện ECMO, đã đi đến kết luận rằng ECMO không hiệu quả hơn so với phương pháp điều trị thông thường trong việc cứu sống bệnh nhân.
Sau này, khi trả lời báo chí, bác sĩ Bartlett nhớ lại: “Điều này đã khiến ECMO bị rơi vào quên lãng nhiều năm trời cho dù nó có thể cứu sống những bệnh nhân người lớn”.
Tuy nhiên, đối với trẻ sơ sinh có vấn đề về tim hoặc phổi, ECMO lại được xác nhận có hiệu quả. Năm 1975, Bartlett và nhóm phẫu thuật của ông lần đầu tiên sử dụng thành công ECMO để điều trị một trẻ sơ sinh bị tổn thương phổi do hít phân su. Em bé là con của một người mẹ nhập cư không có giấy tờ bị bỏ lại bệnh viện.
Bé được các y tá đặt tên Esperanza (tiếng Tây Ban Nha là Hy Vọng), hồi phục ngoạn mục sau 3 ngày sử dụng ECMO. Nhờ phương pháp này mà tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh khó thở ở mức 80% chỉ còn lại... 20%. Nói cách khác, 80% trẻ tổn thương tim hoặc phổi được cứu sống nhờ ECMO.
Trong nhiều năm sau đó, Esperanza vẫn giữ liên lạc với bác sĩ Bartlett và cùng ông tham gia nhiều hoạt động khác nhau. Esperanza có lần nói: “Nếu bác sĩ Bartlett không có mặt vào ngày tôi chào đời thì có lẽ tôi đã không có mặt trên cõi đời này”. ECMO bao gồm một mạch ống bên ngoài, một máy bơm hoạt động như một quả tim và một màng hoạt động như một lá phổi nhân tạo. Thiết bị này liên tục bơm máu ra khỏi cơ thể, bổ sung oxy, loại bỏ carbon dioxide, làm ấm máu và đưa máu trở lại cơ thể.

ECMO giúp duy trì sự sống bộ não cho đến khi cơ thể phục hồi. Ảnh: Canva
Việc điều trị ECMO có thể kéo dài trong nhiều ngày, nhiều tuần hoặc lâu hơn, cho phép tim và phổi được nghỉ ngơi. Nó cũng có thể được áp dụng cho bệnh nhân đang chờ ghép tim hoặc phổi, và ngày càng được sử dụng rộng rãi trong các trường hợp nguy cấp ở người bị ngừng tim.
Trên tạp chí The New York Times Magazine tháng 3/2024,HelenOuyang, phó giáo sư Đại học Columbia, cho biết: “Về bản chất, ECMO giúp duy trì sự sống bộ não cho đến khi cơ thể phục hồi. Bác sĩ Bartlett đã thực sự thúc đẩy ngành y học cấp cứu, không ngừng tin tưởng ECMO và tiếp tục mở rộng ứng dụng của nó ra những lĩnh vực y học khác”.
Một con người tài hoa

Chân dung bác sĩ Robert Hawes Bartlett. Ảnh: The New York Times
Robert Hawes Bartlett sinh ngày 8/5/1939 tại Ann Arbor, nơi cha ông, Robert Meade Bartlett, là bác sĩ phẫu thuật nội trú tại Đại học Michigan. Mẹ ông, Elizabeth Hawes, là người quán xuyến việc nhà.
Khi còn là sinh viên, như nhiều bạn bè cùng lớp, Bartlett có nhiều hoạt động ngoài học hành. Ông đam mê khúc côn cầu và tiếp tục chơi môn này với các bác sĩ vào ban đêm trong nhiều năm trời. Phải đến năm 50 tuổi, khi phải thay khớp háng, ông mới ngừng chơi.
Thời còn học tại trường Cao đẳng Albion (Michigan) trước khi theo đuổi ngành y, ông còn thành lập một ban nhạc có tên Charlie Brown. Người ta kể rằng, đêm trước khi thi tuyển vào trường y, Bartlett đã hoàn thành một buổi biểu diễn, lái xe đến sáng và đến dự thi trong bộ vest trắng đã mặt trong buổi hòa nhạc đêm hôm trước.
Bartlett nhận bằng y khoa từ Đại học Michigan năm 1963 và quay lại trường này nghiên cứu vào năm 1980 sau một thời gian làm bác sĩ phẫu thuật tim.
Phòng thí nghiệm của ông phát triển các thiết bị cứu người, bao gồm phổi nhân tạo đeo được và nhau thai nhân tạo, nghiên cứu giải pháp làm giảm nguy cơ đông máu và viêm trong quá trình can thiệp ECMO để kéo dài khả năng sống của các cơ quan trước khi cấy ghép.
Nhưng ngay cả trong những tháng ngày miệt mài nghiên cứu, bác sĩ Bartlett vẫn không ngừng yêu âm nhạc bằng cách chơi kèn euphonium và double bass với tư cách thành viên dàn nhạc Life Sciences của Đại học Michigan và ban nhạc Ann Arbor Civic.
Ông cũng từng viết hai cuốn tiểu thuyết: “The Salem Syndrome”, (2005) về y học và luật pháp, và “Piece of Mind” (2007), về y học và triết học, trong đó cuốn đầu tiên lấy cảm hứng từ một vụ án vào những năm 1970, khi ông điều hành trung tâm bỏng tại Đại học California, Irvine.
Về đời sống gia đình, bác sĩ Bartlett có vợ là Wanda Bartlett, người mà ông kết hôn vào năm 1960; 2 con trai, Karl và Keith; và 4 đứa cháu. Ngày 20/10/2025, Robert H. Bartlett, người cha đẻ của ECMO, đã qua đời tại nhà riêng ở Ann Arbor, Michigan, sau một thời gian dài lâm bệnh, hưởng thọ 86 tuổi,
Ronald B. Hirschl, giáo sư phẫu thuật nhi khoa tại Đại học Michigan, người hỗ trợ biên tập hồi ký của bác sĩ Bartlett, đã viết về đồng nghiệp: “Ông ấy mới hoàn thành một ca phẫu thuật, về nhà ăn tối với gia đình, đi xem hòa nhạc, viết đơn xin tài trợ nghiên cứu, tham gia dàn nhạc, viết tiểu thuyết, chơi khúc côn cầu, chèo thuyền và đã lên đường tham gia một cuộc chạy đường dài”.
| TÁC GIẢ CỦA GẦN 600 BÀI BÁO KHOA HỌC Trong hơn 50 năm, Bartlett và nhóm của ông đã giành được nhiều tài trợ từ Viện Y tế quốc gia Hoa Kỳ (National Institutes of Health) để nghiên cứu về ECMO và những công nghệ tiên tiến hỗ trợ sự sống. Ông đã xuất bản gần 600 bài nghiên cứu khoa học trong sự nghiệp, là nhà phát minh của nhiều bằng sáng chế, trong đó có một bằng sáng chế mới nhất vào đầu năm nay. |
| TÁC ĐỘNG CỦA ECMO Sau khi được sử dụng ngày càng nhiều ở trẻ sơ sinh, trẻ em và người lớn vào những năm 1990 và 2000, ECMO đã được y học công nhận rộng rãi và đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực hồi sức, đặc biệt trong đại dịch COVID-19. Tính đến giữa năm 2025, Tổ chức Hỗ trợ sự sống ngoài cơ thể (Extracorporeal Life Support Organization) do Bartlett sáng lập ghi nhận có hơn 260.000 trẻ sơ sinh, trẻ em và người lớn mắc bệnh nặng tại khoảng 800 trung tâm y tế ở 66 quốc gia được điều trị bằng ECMO. Khoảng 54% bệnh nhân này được cứu sống. Riêng trong đại dịch COVID-19, ECMO được áp dụng trên hơn 17.000 bệnh nhân, nhờ thế mà hơn một nửa số họ đã thoát chết. |
Theo TSK số 701
![[Banner Top] Medlaw](/uploads/a7259844-bfd9-4875-9a6c-a7f560b6be97.jpg)
![[Banner Top] Hồng Phát](/uploads/88dbe592-ac75-433d-94aa-d42b69ff5a0c.jpg)

![[Banner Mid] Hồng Phát](/uploads/0a12ba57-9f3d-4828-94da-cf937789b409.jpg)
![[Banner Side] Medlaw](/uploads/b729448e-c98e-455a-9d7a-9e658c271f5b.jpg)
Ý kiến của bạn
{% item.name %}
{% item.comment %}