Virus là những sinh vật nhỏ hơn và đơn giản hơn vi khuẩn. Chúng chỉ có thể tồn tại và phát triển bằng cách xâm nhập vào các tế bào của cơ thể. Có nhiều loại virus khác nhau gây bệnh từ nhẹ đến nặng, phổ biến nhất là cảm lạnh, cúm, các bệnh giống cúm, mụn rộp (herpes) miệng, bệnh trẻ em như thủy đậu, quai bị, sởi, viêm họng, viêm phổi, viêm phế quản cấp, viêm dạ dày - ruột và viêm màng não phần lớn là do virus gây nên.
Sức đề kháng tự nhiên của cơ thể cùng sự trợ giúp của thuốc giảm đau và hạ nhiệt thường đủ để chống đỡ với các bệnh nói trên. Tuy vậy, những bệnh nặng do virus gây nên như viêm phổi và viêm màng não vẫn cần phải theo dõi chặt chẽ. Khó khăn trong điều trị là tốc độ sinh sản của virus. Khi các triệu chứng bệnh đã xuất hiện thì số lượng virus trong cơ thể đã tăng lên nhiều khiến cho thuốc chống virus bị hạn chế tác dụng, bởi vậy phải dùng thuốc rất sớm. Thuốc cũng có thể dùng để dự phòng. Một số trường hợp có thể ngừa bằng cách tiêm chủng.
Thuốc chống virus có tác dụng tốt trong điều trị một số bệnh do virus herpes gây nên: mụn rộp miệng, viêm màng não, mụn rộp sinh dục, thủy đậu và zona. Thuốc bôi tại chỗ acyclovir và pencyclovir chữa những đợt cấp mụn rộp miệng, mụn rộp mắt và mụn rộp sinh dục. Thuốc làm cho bệnh nhẹ đi và rút ngắn thời gian điều trị, nhưng không loại trừ hẳn được virus. Acyclovir, famcyclovir và valacyclovir dùng đường uống hoặc hãn hữu đường tiêm để phòng bệnh thủy đậu hoặc những đợt tái phát nặng mụn rộp ở những người vốn đã có sẵn từ trước một số bệnh. Đôi khi bệnh cúm được tiêm phòng bằng oseltamivir hoặc điều trị bằng zanamivir. Oseltamivir cũng dùng để điều trị bệnh cúm ở những người có yếu tố nguy cơ cao, người cao tuổi hoặc bị bệnh hô hấp như bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD), hen, bệnh tim mạch, bệnh thận, đái tháo đường,…
Các interferon là những protein được cơ thể sản xuất ra, có vai trò trong đáp ứng miễn dịch và chức năng tế bào. Các interferon alpha và beta có tác dụng tốt trong điều trị các bệnh viêm gan B, C. Lamivudin cũng điều trị viêm gan B và ribavirin chữa viêm gan C.
Đôi khi người ta dùng gancyclovir để chống virus cự bào (CMV). Điều trị virus hợp bào hô hấp (RSV) bằng ribavirin, phòng bệnh bằng palivizumab. Điều trị AIDS bằng lamivudin, zidovudin, stavudin,…
Thuốc hoạt động như thế nào?
Một số thuốc chống virus tác động vào acid nucleic của virus (DNA hoặc RNA) làm cho virus không nhân lên được. Những thuốc khác ngăn không cho virus nhân lên bằng cách ức chế hoạt động của các enzym polymerase, transcriptase trong tế bào chủ. Cắt đứt sự nhân lên của virus là làm chúng không lan tràn được đến những tế bào lành và nhanh chóng giảm nhẹ các triệu chứng bệnh. Tuy vậy, trong bệnh nhiễm khuẩn herpes, virus vẫn không bị loại trừ hẳn nên bệnh vẫn có thể tái phát vào một dịp khác.
Loại thuốc bôi tại chỗ chống virus thường có tác dụng ngay lập tức. Nếu được chữa sớm, bệnh mụn rộp có thể khỏi nhanh trong vòng hai đến bốn ngày. Loại thuốc mỡ chống virus có thể kích thích và làm đỏ da. Thuốc chống virus dùng đường uống hoặc tiêm hãn hữu có thể gây buồn nôn và choáng váng. Một số thuốc chống virus có thể gây tổn thương thận nên những người có chức năng thận kém khi dùng thuốc nên thận trọng. Một số thuốc có thể tác động xấu đến hoạt động của những tế bào cơ thể bình thường, đặc biệt là các tế bào tủy xương.
Thuốc chống virus thường dùng là acyclovir, famcyclovir, oseltamivir, ribavirin, zidovudin,…
Ý kiến của bạn
{% item.name %}
{% item.comment %}